[tintuc]
1) Tắm cho Trẻ sơ sinh: Đổ 1 lượng tràm mà bạn thấy phù hợp vào thau tắm đã có nước đủ ấm.Sau khi tắm xoa một ít dầu vào lưng để giữ ấm cho bé, đồng thời để bé cảm thấy thoải mái, thư giãn.
2) Sổ mũi, cảm: Thoa dầu nhìu nhìu vào lòng bàn tay, bàn chân, lưng, xung quanh nơi bé ngủ như Nôi, Mùng…
3) Trị ho: Xoa dầu sau lưng và trước ngực cho bé như Massage.
4) Trị kiến, muỗi cắn: Bôi ngay chỗ bị cắn của bé một vài lần là hết sưng tấy và đau ngứa, ngay cả bản thân mình cũng đã dùng và kết quả thật tuyệt vời.
5) Trị đau bụng, đầy hơi: Xoa quanh vùng rốn của bé theo chiều kim đồng hồ nhẹ nhàng.
[/tintuc]
[tintuc]
Hình thái
Cây gỗ nhỏ hay trung bình, thường xanh, cao 10-15m (đôi khi tới 20-25m), và đường kính có thể đạt 50-60cm. Đôi khi là cây bụi, cao 0,5-2m, nếu mọc ở vùng đồi cằn cỗi Thân thường không thẳng; vỏ ngoài mỏng, xốp, màu trắng xám, thường bong thành nhiều lớp. Hệ rễ phát triển mạnh. Lá đơn, mọc so le; phiến lá hình mác hay hình trái xoan hẹp, thường không cân đối, kích thước 4-8(-10)x1-2,0(¬2,5)cm; đầu nhọn hoặc tù, gốc tròn hoặc hơi hình nêm; dày; lúc non có lông mềm màu trắng bạc, sau nhẵn, màu xanh lục; gân chính 5 (đôi khi 6), hình cung; cuống lá ngắn, có lông.
Cụm hoa bông mọc ở đầu cành hay nách lá. Hoa nhỏ, màu trắng, trắng xanh nhạt, trắng vàng nhạt hoặc trắng kem; đài hợp ở gốc thành ống hình trụ hay hình trứng, 5 thuỳđài rất ngắn; cánh tràng 5, có móng rất ngắn (các thuỳđài và cánh tràng đều sớm rụng); nhị nhiều, hợp thành 5 bó, xếp đối diện với thuỳđài; đĩa mật chia thuỳ, có lông mềm; bầu ẩn trong ống đài, 3 ô.
Quả nang gần hình chén hoặc hình bán cầu hoặc hình cầu, kích thước 3¬3,5×3,5-4mm, khi chín nứt thành 3 mảnh. Hạt hình nêm hoặc hình trứng. Sau khi hoa nở, tạo quả; trục cụm hoa tiếp tục sinh trưởng, phát triển tạo thành từng đoạn mang hoa quả và mang lá xen kẽ nhau.Các thông tin khác về thực vật.
Tràm (Melaleuca cajuputi) là một trong 10 loài thuộc chi Tràm (Melaleuca L.) có hình thái gần giống với loài M. leucadendra (L.) L. Nên trước đây, một số tác giảđã có sự nhầm lẫn và xác định tên khoa học của loài tràm phân bốở nước ta là Melaleuca leucadendra L.
M. leucadendra L. (đôi khi còn được viết dưới tên M. leucadendron L.) là loài tràm chỉ phân bố tự nhiên ở Moluccas (Indonesia), Papua New Guinea và Australia. M. leucadendra là loài tràm có lá hẹp, trong tinh dầu chứa chủ yếu là methyl eugenol (80-97%), còn cineol không đáng kể (dưới 1%). Tinh dầu của loài tràm (M. cajuputi) lại chứa chủ yếu là 1,8-cineol (30-70%).
Tràm (M. cajuputi) là một loài duy nhất trong chi Tràm (Melaleuca) phân bố tự nhiên ở phía tây tuyến Wallace (Wallace’s Line), từ Australia đến Đông Nam Á và có khuynh hướng mở rộng vùng phân bố. Đấy là một loài có nguồn gen rất đa dạng. Căn cứ vào các đặc điểm hình thái, sinh thái, thành phần hoá học của tinh dầu và địa lý phân bố, Barlow (1997) đã cho rằng loài tràm (M. cajuputi) có 3 phân loài (subspecies) dưới đây:
* subsp. cajuputi phân bố ở các đảo Baru, Ceram, quần đảo Tanimbar (Indonesia), đảo Timor và các khu vực miền Bắc, miền Tây Territory (Australia). Đây là nguồn cung cấp tinh dầu cajuput oil chủ yếu. Hiện đã được đưa vào trồng trọt trên những diện tích lớn và nhiều giống có chất lượng cao đã được chọn lọc.
* subsp. cumingiana (Turcz.) Barlow. là phân loài phân bố ở Việt Nam, Thái Lan, Myanmar, Malaysia và Indonesia. Đây cũng là phân loài đã được đưa vào trồng trọt để lấy tinh dầu ở nhiều nước Đông Nam Á.
* subsp. platyphylla Barlow. – Phân loài này chỉ phân bốở miền Nam Indonesia và vùng Queenslan (Australia).
Ở nước ta, hiện có 2 dạng:
• Tràm đồi (còn gọi là ‘’tràm gió’’) – cây bụi nhỏ, cao 0,5-2,5(-7)m, phân bố chủ yếu ở các đồi núi thấp, vùng nội địa hay ven biển, trên các loại đất đai cằn cỗi. Hàm lượng tinh dầu trong lá cao, đạt (0,3-)0,5-0,8(-1,2)% và hàm lượng cineol trong tinh dầu cũng cao (45-60%).
• Tràm cừ – cây gỗ, cao 10-20m, mọc trên đất phèn ngập nước, chủ yếu ở vùng Đồng Tháp Mười, bao gồm các tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang và Cà Mau. Hàm lượng tinh dầu trong lá thấp hơn, thường khoảng (0,2-)0,3-0,4(-0,7)% và hàm lượng cineol trong tinh dầu cũng thấp (1,5-9,5%).
Phân bố
Việt Nam:
Bắc Kạn, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hà Tây, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Long An, An Giang, Kiên Giang, Cà Mau.
Thế giới:
Tràm (M. cajuputi) là loài có vùng phân bố rộng, còn gặp ở miền Nam Trung Quốc (Hồng Kông, Hải Nam), Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Tây Nam Papua New Guinea đến miền Bắc Australia. Còn gặp ở Ghinea và Brazil.
Đặc điểm sinh học
Tràm (M. cajuputi) có biên độ sinh thái rộng. Song rừng tràm nguyên sinh thường phân bố trên các bãi cửa sông, các bãi lầy ven biển trong vùng nhiệt đới nóng, ẩm. Tràm sinh trưởng tốt ở những khu vực có nhiệt độ trung bình tối đa khoảng 31-330C và trung bình tối thấp khoảng 17-220C. Tràm không chịu được băng giá. Các khu vực tràm phân bố tập trung thường có lượng mưa trung bình năm 1.300-1.700mm và có gió mùa điển hình. Ở nước ta, “tràm đồi” thường mọc trong các thảm cây bụi ưa sáng, trên các đồi đất thấp, đất feralit, đất cát, đất pha cát, đất lầy phèn mặn, đất khô hạn hay ngập nước theo mùa, đất chua (pH 3,7-5,5) và nghèo dinh dưỡng. Dạng “tràm cứ” mọc trên các khu vực đất phèn ngập nước theo mùa hay thường xuyên thuộc vùng Đồng Tháp Mười, nhưở các tỉnh Long An, An Giang, Đồng Tháp, Cà Mau, Kiên Giang. Tại khu vực này, đất thường có thành phần cơ giới nặng, rất chua (pH 3-3,5), giàu mùn hoặc tích tụ thành lớp than bùn dày 0,3-1,0m.
Tràm là cây lâu năm, ưa sáng và có bộ tán thưa. Trong tự nhiên, tràm phát tán, tái sinh từ hạt, từ gốc hoặc từ rễ. Tràm cừ có tốc độ tăng trưởng khá nhanh, có thể đạt tới 2,3m/năm theo chiều cao và 7cm/năm theo đường kính thân. Với điều kiện nước ta, cây thường bắt đầu ra hoa ở giai đoạn 2-3 tuổi. Hoa thụ phấn chéo nhờ côn trùng là chủ yếu. Tại các tỉnh miền Trung, tràm thường ra hoa vào tháng 10-12 và quả chín vào các tháng 1-3 năm sau.
Công dụng
Thành phần hoá học:
Lá tươi của dạng “tràm đồi” thường chứa (0,3-)0,5-0,8(-1,2)% tinh dầu, trong đó 1,8-cineol là thành phần chính (chiếm 46,0-72%). Các hợp chất khác có hàm lượng đáng kể gồm α¬terpineol (14,03-15,31%) limonen (3,69-3,98%), linalool (2,84-4,17%), α-pinen (0,90-1,24%) và ρ-cymen (0,90%)…
Hàm lượng tinh dầu trong lá (tươi) ở dạng “tràm cừ” thấp hơn, thường trong khoảng (0,20)0,3-0,5(-0,7)%. Và hàm lượng 1,8-cineol trong tinh dầu cũng thấp (1,43-9,49%), các thành phần còn lại gồm α-pinen (13,82-14,5%), ρ-cymen (8,98-9,59%), limonen (1,7%), α¬terpinen (1,78-1,80%) và linalool (0,44-0,50%)…
Công dụng:
Lá tràm có tác dụng kháng khuẩn, giải cảm và giảm đau, nên được dùng để điều trị các vết thương, vết bỏng, cảm lạnh, cúm và kích thích tiêu hoá trong y học dân tộc. Lá tràm phơi khô được nhân dân ở một số địa phương nấu nước uống thay chè.
Tinh dầu tràm được dùng xoa bóp ngoài chữa đau khớp, chân tay nhức mỏi, cảm mạo… Tinh dầu tràm đã được sử dụng làm nguyên liệu để sản xuất các loại cao xoa “Thiên hương”, dầu “Nhật lệ”, “Dầu gió”… Những năm qua ngành Dược Quảng Bình dùng tinh dầu tràm điều chế viên nang mềm “eucaseptyl”, dịch “tusinol” làm thuốc sát trùng đường hô hấp, giảm ho, long đờm, thông thoáng mũi, họng…
Gỗ dùng trong xây dựng, trụ mỏ, nguyên liệu giấy sợi và đóng đồ gia dụng.
[/tintuc]
Cuối năm, trời se lạnh, mưa nhì nhằng làm cho vài ngày hửng nắng của tháng chạp trở nên xa ngái, đâu đó, không khí mùa Đông ảm đạm phủ xuống mặt đất. Cái ảm đạm càng trở nên thê thiết khi băng xe trên quốc lộ 1 A, đoạn qua huyện Phú Lộc, Huế. Mùi dầu tràm và khói lá từ các lò dầu tràm hai bên đường đôi khi làm ấm lên đôi chút nhưng cũng cái ấm trong chốc lát đó lại làm cho cái lạnh càng thêm thấm vào thịt da, nhất là khi nghe những người nấu dầu tràm kể về đời sống và nỗi thao thức với nghề của họ.
Những cái Tết ấm hương tràm
O Lộc (tức cô Lộc), sống ở huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế chia sẻ: “Khó lắm, nấu một lít dầu là tốn cả tạ lá tràm lận. Lá thiên nhiên, trên rừng, trên núi và trong các trũng đất. Mình phải mua lá, rồi tự hái lá nữa mới đủ nấu và kiếm lãi được. Mỗi ngày hai vợ chồng kiếm cũng được ba trăm ngàn đồng. Ngày nào người ta mua nhiều thì được năm bảy trăm ngàn hoặc một triệu đồng. Nhưng những ngày khác thì lại không có khách. Nói chung là chia trung bình thì mỗi ngày kiếm được một trăm rưỡi ngàn đồng..”
Cũng theo o Lộc, nghề nấu dầu tràm ở huyện Phú Lộc có từ rất lâu đời, từ thời vua chúa để lại. Thuở bấy giờ, dầu tràm là thứ dược liệu xức ngoài da duy nhất mà người Việt có được để tiến vua trong những dịp đầu mùa Đông, khi cái lạnh đến. Và vị tổ của nghề dầu tràm không phải là người Đàng Trong và nghề của họ lúc đó là nghề nấu tinh dầu sả. Nhưng họ theo chúa Nguyễn Hoàng trôi dạt vào Thuận Hóa và sau nhiều năm tìm hiểu, nghiên cứu cây cỏ ở đây, họ phát hiện cây tràm có hàm lượng dầu rất cao, tính năng thần dược. Nghề nấu dầu tràm bắt đầu từ đây.
O Lộc giải thích thêm rằng khi nói về tổ nghề mà không xưng bằng Ông hay Bà là có lý do riêng. Bởi những vị tổ của nghề nấu dầu tràm là một nhóm thợ nấu tinh dầu sả phía Bắc. Lúc đó, tinh dầu sả là thứ dược liệu xức ngoài da và dùng như nước hoa bây giờ của giới quí tộc phong kiến. Sau này, khi vào miền Trung, họ không muốn nấu dầu sả nữa vì muốn tìm ra một loại dầu mang đặc trưng của Đàng Trong, họ đã nghiên cứu, nấu ra dầu tràm. Và nếu nấu một cách nghiêm túc, không gian dối thì có thể nói dầu tràm là loại dược liệu xức ngoài da tốt số một. Hiếm có loại dầu nào khá hơn.
Chính vì tính năng thần dược của dầu tràm mà người ta dùng nó cho các sản phụ, trẻ sơ sinh như một thứ biệt dược dành cho người có làn da non nớt, mẫn cảm. Và với người lớn, đàn ông, dầu tràm là một thứ biệt dược có thể làm giảm mọi cơn đau, từ trặc cơ cho đến đau bụng, thậm chí dầu tràm có thể đánh tan những khối hạch lâu năm, thành u thành cục dưới da.
O Lộc khẳng định lại thêm là dầu tràm có công dụng rất mạnh nhưng lại không làm tổn thương da em bé hay da mẫn cảm. Nhưng đó là dầu tràm thật. Hiện tại, dầu tràm giả chiếm trên 90% thị trường. Bởi dầu tràm thật vô cùng hiếm. Muốn có một mẻ dầu tràm, đầu tiên phải hái cho được lá tràm núi. Lá tràm núi rất dài, lá nhỏ bằng một phần ba, một phần tư lá tràm hoa vàng người ta thường trồng lấy gỗ và cây tràm này chỉ mọc trên các đỉnh núi ở dãy Bạch Mã, dường như không có ở nơi khác.
Chính vì sự quí hiếm của cây tràm núi, tràm dầu này mà chỉ có xứ Huế mới có được loại dầu tràm với tính năng chữa trị thần diệu của nó. Và mỗi lít dầu tràm chính hiệu, theo o Lộc, nếu tính luôn công đi hái lá, nấu dầu thì có thể lên đến hàng chục triệu đồng. Bởi mỗi ký lá tràm tươi mua của người đi rừng đã lên đến một trăm rưỡi ngàn đồng. Chính vì nó quá hiếm nên người nấu dầu tự đi hái lá và bỏ công làm lãi.
Thường thì một lít dầu tràm núi thứ thiệt có giá dao động từ một triệu hai trăm ngàn đồng đến một triệu bốn trăm ngàn đồng nếu như chủ lò tự đi rừng hái lá về nấu. Và dầu tràm thật rất dễ nhận biết vì nó trong suốt không màu, có mùi thơm hơi hắc khi thoa lên da nhưng vài phút sau thì không còn hắc mà chỉ nghe thoang thoảng một làn hương rất nhẹ. Đặc biệt, nếu bị đau cơ hay kiến cắn, muỗi đốt, là dầu thật, thoa vào chừng ba phút sau thì vết cắn tự tan, không thấy dấu, cơn đau tự chấm dứt.
Nhưng cũng theo o Lộc, hiện tại, loại dầu tràm thật vô cùng hiếm. Điều này làm cho đời sống của người nấu dầu tràm trở nên khó khăn, đảo lộn mọi thứ.
Lộng giả thành chân
Chị Thanh, một kĩ sư nông lâm chuyên nghiên cứu về cây tràm và cũng là đại lý dầu tràm bỏ mối cho cả nước, chia sẻ: “Người sẽ pha hóa chất bằng dầu thông đó… Dầu thông nó độc lắm, tràm giờ hiếm lắm mua không ra. Nếu dầu tràm đặc thì nó có màu xanh trong. Hiện tại bây giờ dầu giả quá nhiều”.
Chị Thanh cho biết thêm là hiện nay rất khó để tìm ra một chai dầu tràm thật. Bởi hầu hết dầu tràm đều được nấu bằng lá của cây keo lá tràm, tức tràm hoa vàng, một loại cây người ta trồng để phù xanh đất trống đồi trọc và lấy gỗ sản xuất giấy. Riêng cây tràm, rất hiếm để hái lá bởi nó chỉ còn trên các ngọn núi cao trên dãy núi Bạch Mã và mọc rải rác ở một số đồi cát gần phá Tam Giang nhưng nó lại mọc chen, giấu mình trong các bụi rậm, khó mà tìm thấy.
Trong thời gian ba năm trở lại đây, loại dầu tràm có màu vàng đục như nước trà xuất hiện khắp thành phố Huế và đến thời điểm hiện tại, có hơn ba trăm lò nấu dầu tràm xuất hiện khắp tỉnh Thừa Thiên Huế. Và những chai dầu tràm mà theo chị Thanh là nó có nguồn gốc từ nước lã pha hương tràm được chuyển từ Lào sang cửa khẩu Lao Bảo do những người Trung Quốc sản xuất đã tràn lan trên đất Huế.
Chị Thanh nói rằng giờ đụng thứ gì vẫn thấy bóng dáng Trung Quốc, nhiều khi chị không muốn nghĩ tới nhưng hễ sáng ra, mở mắt, mang dầu lên bến xe để chuyển đến các đại lý thì chị cảm thấy buồn rầu một cách lạ lùng khi nhìn những chai nước pha hương tràm vàng vọt nằm vắt vẻo trên các kệ dầu của người Huế. Điều này luôn cho chị một cảm giác bất an, khó tả.
Hiện tại, dầu tràm nhà chị Thanh có hai loại, một loại nấu từ tràm hoa vàng có giá bán sáu trăm ngàn đồng một lít, dầu tràm núi bán với giá hai triệu đồng một lít. Nhưng điều đáng ngại nhất là loại dầu giả do Trung Quốc sản xuất được hét với giá năm trăm ngàn đồng một lít và nếu khách trả chác thì họ có thể bán với giá một trăm ngàn đồng một lít mà vẫn có lãi.
Loại dầu giả này không những không có tác dụng chống gió độc, giảm cơn đau và sát trùng như dầu thật mà còn gây nguy hiểm nếu như sản phụ dùng dầu này sẽ dẫn đến đau lưng kinh niên vì hàm lượng độc tố của nó thấm qua da. Rất tiếc là hiện nay nó đã tràn lan trên thị trường.
Mức độ tràn lan của dầu tràm giả mạnh đến độ người ta tin dầu thật phải có màu vàng đục và phải có mùi thơm như dầu giả. Và người nấu dầu tràm nếu không bán loại dầu giả này thì không tài nào trụ nổi bởi không phải ai cũng sẵn sàng bỏ tiền ra mua dầu tràm với giá tiền triệu trong khi đó có một loại dầu rất thơm mà chỉ mua với giá hai chục ngàn đồng trên một chai loại đựng rượu Wall street.
Năm hết Tết tới, cái lạnh se se của xứ Huế pha với mùi khói lá tràm và mùi dầu trong câu chuyện thăng trầm của nghề dầu tràm cũng như mối nguy đang tiềm ẩn trong chai dầu tràm giả… Càng làm cho buổi chiều cuối năm trở nên thê thiết, chơi vơi!
Theo Đài Châu Á Tự Do (rfa.org)
[/tintuc]
[tintuc]
Tùy thuộc từng loại nguyên liệu và trạng thái của tinh dầu trong nguyên liệu (tự do hoặc kết hợp) mà người ta dùng các phương pháp khác nhau để tách chúng.
Các phương pháp tách tinh dầu cần phải đạt được những yêu cầu cơ bản như sau:
* Giữ cho tinh dầu thu được có mùi vị tự nhiên ban đầu.
* Qui trình chế biến phải phù hợp, thuận lợi và nhanh chóng.
* Phải tách được triệt để tinh dầu trong nguyên liệu, tổn thất tinh dầu trong quá trình chế biến và hàm lượng tinh dầu trong nguyên liệu sau khi chế biến (bã) càng thấp càng tốt.
* Chi phí đầu tư vào sản xuất là ít nhất.
Dựa vào các yêu cầu đã nêu trên, người ta thường dùng những phương pháp khai thác tinh dầu sau:
* Phương pháp hóa lý: chưng cất và trích ly ( trích ly có thể dùng dung môi bay hơi hoặc dung môi không bay hơi)
* Phương pháp cơ học: dùng các quá trình cơ học để khai thác tinh dầu như ép, bào nạo.
* Phương pháp kết hợp: khai thác tinh dầu bằng cách kết hợp giữa quá trình hóa lý và quá trình cơ học, hoặc sinh hóa (lên men) và cơ học, hoặc sinh hóa và hóa lý. Ví dụ, trong quả vani, tinh dầu ở dạng liên kết glucozit nên dùng enzym để thủy phân, phá hủy liên kết này rồi sau đó dùng phương pháp chưng cất (hóa lý) để lấy tinh dầu.
Tách tinh dầu bằng phương pháp chưng cất (hóa lý):
[tintuc]
Tin nhắn đã gửi thành công
Cảm ơn bạn đã để lại thông tin
Chúng tôi sẽ liên hệ với bạn trong thời gian sớm nhất
Thông báo sẽ tự động tắt sau 5 giây...